Skip to main content

Tháng ba Jäger - Wikipedia


" Jäger March " (tiếng Phần Lan: "Jääkärimarssi" ban đầu là "Jääkärien marssi"), Op. 91a là một cuộc diễu hành quân sự của Jean Sibelius. Ông đặt ra năm 1917 từ được viết bởi Jäger Phần Lan, Hilfsgruppenführer Heikki Nurmio, người phục vụ tại Libau, trong Tiểu đoàn Jäger thứ 27 của Hoàng gia Phổ. trong đó Đại công tước Phần Lan vẫn là một phần. Các từ đã được chuyển lậu sang Phần Lan cho Sibelius, người đã sáng tác bài hát này ở Järvenpää.

Sibelius đã viết "Jäger March" ban đầu cho hợp xướng và piano của đàn ông, và sau đó đã sắp xếp nó cho dàn hợp xướng và giao hưởng của đàn ông. [2][3] Buổi biểu diễn công khai đầu tiên của Jäger March là ở Helsinki vào ngày 19 tháng 1 1918 bởi dàn hợp xướng Akademiska sångföreningen, do Olof Wallin lãnh đạo. Cuộc nội chiến Phần Lan bắt đầu vào cùng ngày giữa quân đội Trắng và Đỏ. Cuộc tuần hành là cuộc diễu hành danh dự của nhiều đội quân. [4]

Bản dịch tiếng Phần Lan [5] Bản dịch tiếng Anh [6]
Bản đầu tiên

Syvä iskumme on, viha voittamaton,
meil 'armoa
Koko onnemme kalpamme kärjessä on,
ei rintamme heltyä saata.
Sotahuutomme Hurmaten maalle soi,
mi katkovi kahleitansa.
Kertosäe (× 2):
Ei ennen uhmamme uupua với,
kuin vapaa trên Suomen kansa.

Sâu là đòn của chúng tôi, cơn thịnh nộ của chúng tôi là bất khả chiến bại,
Chúng tôi không có lòng thương xót, cũng không có quê hương.
Hạnh phúc của chúng tôi nằm ở mũi kiếm,
trái tim chúng tôi sẽ không biết thương hại.
Tiếng kêu chiến tranh của chúng ta sẽ được trao cho đất nước chúng ta,
Điều này đang cắt đứt chuỗi của nó.
Điệp khúc (× 2):
Sự thách thức của chúng ta sẽ không được thông qua,
Trước khi người dân Phần Lan sẽ được tự do.

khổ thơ thứ hai

Kun đauuvi päät muun kansan, maan,
me jääkärit uskoimme yhä.
Oli rinnassa yö, tuhat tuskaa,
vaan yks 'aatos ylpeä, pyhä:
Me nousemme kostona Kullervon,
soma trên sodan kohtalot.
Kertosäe (× 2):
Satu uusi nyt Suomesta syyvä on,
se kasvaa, se ryntää, se voittaa.

Khi những người còn lại và vùng đất treo đầu họ
Jaegers vẫn tin tưởng.
Trong rương của chúng ta, chúng ta đã có một đêm, một ngàn nỗi đau,
nhưng chỉ có một ý nghĩ tự hào, thánh thiện:
Chúng ta sẽ trỗi dậy như sự trả thù của Kullervo,
Và chúng ta sẽ vượt qua những định mệnh ngọt ngào chiến tranh.
Điệp khúc (× 2)
Một câu chuyện mới sẽ được sinh ra ở Phần Lan,
nó phát triển, thu phí, chiến thắng.

khổ thứ ba

Häme, Karjala, Vienan rannat ja maa,
yuri 'suuri trên Suomen valta.
Sen aatetta ei väkivoimat saa
pois Pohjolan taivaan alta.
Sen leijonalippua jääkärien
käsivarret jäntevät kantaa, [1965009] và vùng đất,
chỉ có một Phần Lan vĩ đại.
Lý tưởng của nó không thể bị loại bỏ bởi lực lượng tuyệt đối
từ dưới bầu trời phương Bắc.
Lá cờ Sư tử của nó được mang theo,
bởi bàn tay mạnh mẽ của Jaegers,
Điệp khúc (× 2):
trên tiếng gầm rú của chiến trường đẫm máu,
đến bờ biển Phần Lan đang trỗi dậy.

Tài liệu tham khảo [ chỉnh sửa ]

Liên kết ngoài [ chỉnh sửa ]


visit site
site

Comments

Popular posts from this blog

Xung đột Thái Lan-Việt Nam (1979-1989) – Wikipedia tiếng Việt

Sau khi quân đội Việt Nam tiến vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot trong chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979, các tàn quân Khmer Đỏ rút về các khu vực biên giới gần Thái Lan. Với sự trợ giúp từ quân đội Trung Quốc, đội quân của Pol Pot đã tái tập hợp và tổ chức lại trong các khu rừng và miền núi vùng biên giới Thái Lan-Campuchia. Trong thời gian từ 1980 tới đầu những năm 1990, lực lượng Khmer Đỏ từ bên trong trại tị nạn ở Thái Lan đã tiến hành chiến tranh du kích nhằm chống lại sự ổn định của nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Trong các cuộc hành quân càn quét lực lượng du kích, quân đội Việt Nam đã tiến sát và thậm chí vượt qua biên giới Thái Lan để tấn công các căn cứ Khmer Đỏ. Trong bối cảnh địa chính trị những năm 1980, Việt Nam và Thái Lan là hai nước có hệ tư tưởng đối nghịch. Sau khi chế độ Khmer đỏ rút khỏi Phnôm Pênh, Thái Lan không công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được Việt Nam hậu thuẫn và cùng với phần lớn các nước trên thế giới vẫn công nhận Khmer đỏ là đạ...

Chương trình Colombo – Wikipedia tiếng Việt

Chương trình Colombo còn được gọi là Kế hoạch Colombo (tiếng Anh: Colombo Plan ) là một tổ chức quốc tế với mục đích hợp tác phát triển kinh tế và xã hội trong khu vực Á châu và Thái Bình Dương. Hiệp hội này được thành lập ngày 1 Tháng Bảy năm 1951 với bảy thành viên nguyên thủy: Anh, Ấn Độ, Canada, Pakistan, New Zealand, Sri Lanka, và Úc. Tổ chức này sau phát triển để bao gồm 26 quốc gia gồm một số nước thuộc khối ASEAN và SAARC. Khi mới thành lập, hội mang tên Colombo Plan for Cooperative Economic Development in South and Southeast Asia , tức Chương trình Colombo để Hợp tác Phát triển Kinh tế Nam và Đông Nam Á . Năm 1977 tên hội được đổi thành Colombo Plan for Cooperative Economic and Social Development in Asia and the Pacific để phản ảnh trọng tâm địa lý mở rộng để bao gồm cả Á châu và Thái Bình Dương. Chương trình Colombo đề ra mục đích phát triển khu vực bằng cách đào tạo nhân sự chuyên môn cũng như cung ứng tài lực để xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu cống, phi trường, đường sắt,...

Hồ Uluabat - Wikipedia

Hồ Uluabat (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Uluabat Gölü và Apolyont Gölü ) là tên của một hồ nước ngọt ở vùng lân cận Bursa, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một hồ nước lớn, có diện tích từ 135 đến 160 km 2 tùy theo mực nước, nhưng rất nông, chỉ sâu 3 m ở điểm sâu nhất. Hồ chứa tám hòn đảo và một hòn đảo khác đôi khi là một hòn đảo và đôi khi là một bán đảo. Hòn đảo lớn nhất được gọi là Đảo Halilbey. Ở phía tây nam, hồ được nuôi dưỡng bởi sông Mustafakemalpaşa, nơi đã hình thành một đồng bằng bùn. Nước rời khỏi hồ bằng dòng suối Ulubat, [ cần dẫn nguồn ] chảy về phía tây, và đến Biển Marmara qua sông Susurluk. Hầu hết các bờ hồ đều được bao phủ trong những cây ngập nước, và nó có những luống nước trắng rộng lớn nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hồ Ulubat là một trong những khu vực sinh sản của loài chim cốc có nguy cơ tuyệt chủng ( Phalacrocorax pygmeus ). Cuộc khảo sát mới nhất của DHKD (Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên Thổ Nhĩ Kỳ) vào tháng 6 năm 1998 đã tìm thấy 823 cặp chim cốc pygmy, 105 cặp diệc đêm, 109 cặp diệ...