Skip to main content

Mỡ vàng - Wikipedia


Một thùng để dành dầu ăn ở Austin, Texas, Hoa Kỳ, được quản lý bởi một công ty tái chế.

Mỡ vàng cũng được gọi là dầu ăn đã sử dụng ( UCO ), dầu thực vật đã sử dụng ( UVO ), dầu thực vật tái chế hoặc dầu thực vật thải ( được thu hồi từ các doanh nghiệp và ngành công nghiệp sử dụng dầu để nấu ăn.

Nó được sử dụng để nuôi gia súc và sản xuất xà phòng, đồ trang điểm, quần áo, cao su và chất tẩy rửa. [1] Do sự cạnh tranh từ các ngành công nghiệp khác, EIA ước tính rằng ít hơn một phần ba mỡ vàng có thể được tha cho sản xuất diesel sinh học hàng năm. [2]

Nó khác với mỡ nâu; Mỡ màu vàng thường được sử dụng dầu chiên từ nồi chiên sâu, trong khi đó mỡ nâu có nguồn gốc từ các thiết bị chặn dầu mỡ. [3]

Các cách sử dụng khác của thuật ngữ [ chỉnh sửa ]

-các loại chất lượng của mỡ động vật (mỡ bò hoặc cừu) từ thực vật dựng hình động vật.

Thuật ngữ này đã được sử dụng một thời gian. Một nguồn từ năm 1896 mô tả nó như sau: "Mỡ màu vàng được tạo ra bởi các nhà đóng gói. Tất cả các vật liệu từ chối của các nhà đóng gói đều đi vào bể chứa mỡ màu vàng, cùng với bất kỳ con lợn nào có thể chết trên tay người đóng gói." [4]

Xem cũng [ chỉnh sửa ]

  1. ^ Murphy, Denis J. Lipid thực vật: sinh học, sử dụng và thao tác . Wiley-Blackwell, 2005, tr. 117.
  2. ^ Radich, Anthony Hiệu suất, chi phí và sử dụng diesel sinh học
  3. ^ Các nguyên liệu mỡ nâu cho Biod Diesel. K. Shaine Tyson, Phòng thí nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia. Có sẵn từ Chương trình sinh khối khu vực Đông Bắc. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2009
  4. ^ Brannt, William Theodore và Schaedlerm Karl. Một chuyên luận thực tế về chất béo và dầu động vật và thực vật . H.C. Baird, 1896, tr. 110.

Liên kết ngoài [ chỉnh sửa ]


visit site
site

Comments

Popular posts from this blog

Xung đột Thái Lan-Việt Nam (1979-1989) – Wikipedia tiếng Việt

Sau khi quân đội Việt Nam tiến vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot trong chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979, các tàn quân Khmer Đỏ rút về các khu vực biên giới gần Thái Lan. Với sự trợ giúp từ quân đội Trung Quốc, đội quân của Pol Pot đã tái tập hợp và tổ chức lại trong các khu rừng và miền núi vùng biên giới Thái Lan-Campuchia. Trong thời gian từ 1980 tới đầu những năm 1990, lực lượng Khmer Đỏ từ bên trong trại tị nạn ở Thái Lan đã tiến hành chiến tranh du kích nhằm chống lại sự ổn định của nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Trong các cuộc hành quân càn quét lực lượng du kích, quân đội Việt Nam đã tiến sát và thậm chí vượt qua biên giới Thái Lan để tấn công các căn cứ Khmer Đỏ. Trong bối cảnh địa chính trị những năm 1980, Việt Nam và Thái Lan là hai nước có hệ tư tưởng đối nghịch. Sau khi chế độ Khmer đỏ rút khỏi Phnôm Pênh, Thái Lan không công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được Việt Nam hậu thuẫn và cùng với phần lớn các nước trên thế giới vẫn công nhận Khmer đỏ là đạ...

Chương trình Colombo – Wikipedia tiếng Việt

Chương trình Colombo còn được gọi là Kế hoạch Colombo (tiếng Anh: Colombo Plan ) là một tổ chức quốc tế với mục đích hợp tác phát triển kinh tế và xã hội trong khu vực Á châu và Thái Bình Dương. Hiệp hội này được thành lập ngày 1 Tháng Bảy năm 1951 với bảy thành viên nguyên thủy: Anh, Ấn Độ, Canada, Pakistan, New Zealand, Sri Lanka, và Úc. Tổ chức này sau phát triển để bao gồm 26 quốc gia gồm một số nước thuộc khối ASEAN và SAARC. Khi mới thành lập, hội mang tên Colombo Plan for Cooperative Economic Development in South and Southeast Asia , tức Chương trình Colombo để Hợp tác Phát triển Kinh tế Nam và Đông Nam Á . Năm 1977 tên hội được đổi thành Colombo Plan for Cooperative Economic and Social Development in Asia and the Pacific để phản ảnh trọng tâm địa lý mở rộng để bao gồm cả Á châu và Thái Bình Dương. Chương trình Colombo đề ra mục đích phát triển khu vực bằng cách đào tạo nhân sự chuyên môn cũng như cung ứng tài lực để xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu cống, phi trường, đường sắt,...

Hồ Uluabat - Wikipedia

Hồ Uluabat (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Uluabat Gölü và Apolyont Gölü ) là tên của một hồ nước ngọt ở vùng lân cận Bursa, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một hồ nước lớn, có diện tích từ 135 đến 160 km 2 tùy theo mực nước, nhưng rất nông, chỉ sâu 3 m ở điểm sâu nhất. Hồ chứa tám hòn đảo và một hòn đảo khác đôi khi là một hòn đảo và đôi khi là một bán đảo. Hòn đảo lớn nhất được gọi là Đảo Halilbey. Ở phía tây nam, hồ được nuôi dưỡng bởi sông Mustafakemalpaşa, nơi đã hình thành một đồng bằng bùn. Nước rời khỏi hồ bằng dòng suối Ulubat, [ cần dẫn nguồn ] chảy về phía tây, và đến Biển Marmara qua sông Susurluk. Hầu hết các bờ hồ đều được bao phủ trong những cây ngập nước, và nó có những luống nước trắng rộng lớn nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hồ Ulubat là một trong những khu vực sinh sản của loài chim cốc có nguy cơ tuyệt chủng ( Phalacrocorax pygmeus ). Cuộc khảo sát mới nhất của DHKD (Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên Thổ Nhĩ Kỳ) vào tháng 6 năm 1998 đã tìm thấy 823 cặp chim cốc pygmy, 105 cặp diệc đêm, 109 cặp diệ...